Sau người Nguyễn Tú vang lên một giọng nói già nua: - Đánh chết bọn họ làm gì, không ngại bẩn tay à? Đám phu nhân lần đầu tiên nhìn thấy Tú Tú cô nương nổi giận, trong lòng sợ hãi, nhưng khi thấy ông lão kia lộ diện liền thở phào một hơi. Dù sao cũng là gương mặt mà dân chúng trấn nhỏ quen thuộc, bao nhiêu năm rồi, mọi nhà bất kể sang hèn đều phải giao tiếp với ông ta, hoặc có thể nói là giao tiếp với tiệm thuốc Dương gia chỗ ông ta. Cho dù Diêm Vương gia muốn thu người, trước tiên cũng phải hỏi xem đám thầy lang ở tiệm thuốc Dương gia có đồng ý hay không. Chỉ là thu tiền hơi đắt một chút, khiến người ta không thích. Nguyễn Tú quay đầu nhìn ông lão, không nói gì. Lão Dương rít từng ngụm thuốc lá sợi, nhìn đám phụ nữ lắm lời kia. Lòng dạ bọn họ cũng không phải ác độc, nhưng nếu nói là loại người lương thiện thì quăng tám sào cũng không tới. Trần Bình An lúc nhỏ gặp nạn, không còn cha mẹ, thiếu chút nữa đã không sống nổi, khi ấy quả thật có không ít hàng xóm láng giềng đưa tay giúp đỡ. Dù sao cha mẹ của Trần Bình An tính tình hiền hậu, lòng người cũng đều là thịt. Chẳng hạn như mẫu thân của Cố Xán, còn có mấy người già hôm nay đã qua đời, đều thường xuyên kéo Trần Bình An tới nhà mình ăn cơm. Cơm nước không tốt, tiết trời lạnh lẽo sẽ đưa một ít quần áo cũ vá víu, nhưng tốt xấu gì cũng có thể giúp kéo dài tính mạng. Chỉ là thế sự có dư vị lại nằm ở đây. Những người thật lòng giúp đỡ sau đó đều không mong được hồi báo, thấy thiếu niên có tiền đồ thì trong lòng chỉ cao hứng, nói với hậu bối nhà mình mấy câu như người tốt sẽ được báo đáp: “Xem đi, ông trời đã mở mắt. Không phải như vậy sao, con trai của đôi vợ chồng trẻ tuổi kia, hôm nay tất cả phúc đức báo ứng đều rơi vào người hắn.” Theo đó bọn họ cũng cảm thấy hi vọng vào cuộc sống, nghĩ rằng sau này nhà mình cũng sẽ có vận may như vậy. Ngược lại những người năm xưa không bỏ tiền bỏ sức bao nhiêu, có lẽ còn không thiếu lời châm chọc, sau khi thiếu niên phát tài, bọn họ lại ra sức khoác lác, tự coi mình là Bồ Tát cứu khổ cứu nạn. Chẳng hạn như ba người trước mắt, thường đến ngõ Kỵ Long ăn không trả tiền, còn kéo theo người nhà cùng đi. Nguyễn Tú kiên nhẫn, không muốn Trần Bình An bị người khác nói xấu, lại không muốn sổ sách buôn bán trong tiệm bị thiếu hụt, đành phải dùng tiền của mình để bù vào. Số lượng dù không phải quá lớn, nhưng gần một năm qua cũng phải đến bốn năm trăm lượng bạc. Đối với địa phương nghèo khổ tầng dưới chót như ngõ Nê Bình và ngõ Hạnh Hoa, quanh năm suốt tháng không sờ được mấy miếng bạc vụn, số tiền này quả thật không nhỏ. Lão Dương nhìn về một phu nhân trong đó không dắt con cái theo, nói: - Đi nói với tên đàn ông làm người hầu ở huyện nha của ngươi, lại bảo hắn nói với người sau lưng một câu. Người làm gì trời cũng đang nhìn, những chuyện khiến người ta chán ghét phải có chừng có mực. Cẩn thận sau này sinh con không có hậu môn, thật sự trở thành tai họa thì không ai cứu được đâu. Phu nhân hơi chột dạ: - Lão Dương, ông đang nói gì thế, sao tôi nghe không hiểu? - Nghe không hiểu thì thôi. Lão Dương nhả ra một vòng khói mờ mịt: - Vậy ta sẽ nói những lời mà các ngươi nghe hiểu được. Sau này các ngươi đến tiệm của ta bốc thuốc, giá cả sẽ tăng gấp đôi. Gặp phải bệnh nặng chết người, thầy lang trong tiệm ta sẽ không đến nhà, các ngươi cứ chuẩn bị quan tài là được. Đám phu nhân đều kinh ngạc. Lão Dương liếc nhìn một đứa trẻ mặt mày thanh tú, tố chất khỏe mạnh, rụt rè đứng bên cạnh mẹ nó, lắc đầu thở dài nói: - Đáng tiếc, để cho một trăm lượng bạc của mẹ ngươi cắt đứt đường trường sinh. Sau này không thể đặt chân trong núi lớn phía tây, rời xa quê nhà sống đầu đường xó chợ, hãy nhớ tới câu nói của ta hôm nay. Lão dứt khoát rời đi: - Tú Tú cô nương, kế tiếp nếu bọn họ vẫn không chịu cút, vậy thì có thể đánh chết bọn họ, hợp tình hợp lý hợp quy củ, không ai có thể bới móc được. Sau khi đánh chết không cần nhặt xác, chỉ cần nhớ ném ra ngõ Nê Bình. Có bẩn tay thì đến sông Long Tu rửa là được. Trước kia ấn tượng của Nguyễn Tú đối với lão Dương không được tốt lắm, luôn cảm thấy mây mù che khuất nhìn không rõ ràng, cho nên vẫn hơi kiêng dè. Nhưng lúc này thiện cảm chợt gia tăng, cười nói: - Lần sau tôi và Trần Bình An sẽ đến tiệm chúc tết. Lão Dương “ừ” một tiếng, gật đầu không từ chối. Lão vừa nghĩ tới bà vợ đanh đá nhà Lý Nhị, lại quay đầu nhìn tiểu cô nương thấu tình đạt lý, tâm tình trở nên phức tạp, nửa tốt nửa xấu. Trong trấn nhỏ này, e rằng cũng chỉ có người đàn bà dốt nát thiếu lòng dạ kia là có bản lĩnh cũng có gan mắng chửi lão, mấu chốt là lão còn không cãi lại bà ta. Có lần bị bà ta chặn cửa mắng mỏ, lão thật sự không nhịn được, bèn bảo Lý Nhị quản lý cái miệng thối của vợ mình cho tốt. Kết quả Lý Nhị kìm nén cả buổi, mới trả lời một câu khiến lão nổi cơn tam bành: “Nếu sư phụ ngài thật sự tức giận, cứ đánh con một trận là được. Nhớ đừng đánh vào mặt, nếu không về nhà bị vợ con nhìn thấy, bà ấy sẽ lại đến mắng ngài.” Nếu không phải xem trọng nha đầu nhà Lý Nhị, lão Dương thật muốn tát cho bà ta một cái. Ba phu nhân trong ngõ không dám ở lại nữa, lúc đến vui vẻ lúc về lại chán chường, ra khỏi ngõ còn nội chiến với nhau, người này trách tội người kia, mắng chửi xô đẩy. Khi mẫu thân cãi nhau với người khác, đứa trẻ bị lão Dương lôi ra nói chuyện kia sắc mặt vẫn bình tĩnh. Nó quay đầu nhìn về ngõ sâu chật hẹp, chỉ cảm thấy trong lòng trống trải, lại không thể nói rõ nguyên nhân. Giống như đã mất đi thứ gì rất quan trọng, chẳng hạn phụ nữ nấu ăn thiếu muối, tiều phu lên núi làm mất dao chẻ củi. Sau khi đám phu nhân chán nản rời đi, Nguyễn Tú phát hiện hai thần giữ cửa vẽ màu trước nhà Trần Bình An, chẳng biết tại sao lại mất đi một chút chân linh kia. Chuyện này rất kỳ quái, cho dù là thần giữ cửa bằng giấy bình thường bán trong chợ, chỉ cần người đó còn chưa biến mất trong dòng thời gian, kim thân và hương khói vẫn còn, vậy thì sẽ ẩn chứa một chút linh khí. Chỉ là chút linh khí này rất nhanh sẽ bị gió táp mưa sa thổi đi, không chống được quá nhiều tà khí. Cho nên mỗi lần năm mới đều phải đổi thần giữ cửa, chứ không chỉ vì muốn có không khí vui mừng cho xuân mới mà thôi. Nhưng hai bức tranh văn võ thánh hiền trước mắt Nguyễn Tú, chính là người sáng lập hai dòng họ Tào và Viên, thượng trụ quốc của vương triều Đại Ly. Hôm nay gia tộc rất phát triển ở Đại Ly, hương khói thịnh vượng, theo lý mà nói mới dán lên không thể nào mất hết chân linh được. Nguyễn Tú nhíu mày bước tới trước, vươn tay khẽ vuốt lên giấy màu kém chất lượng. Trên giấy nhanh chóng có ánh sáng vàng chảy qua, chính khí lẫm liệt, chỉ là người trần mắt thịt không thể nhìn thấy mà thôi. Lúc này thiếu nữ áo xanh mới hài lòng rời đi. Còn như thần giữ cửa bên nhà hàng xóm Tống Tập Tân, nàng cũng không hề liếc đến. Nàng đi dạo đến con ngõ nhà Lưu Tiện Dương, huýt gió một tiếng, rất nhanh có một con chó vui mừng nhảy ra, vòng quanh thiếu nữ. Nàng mỉm cười bỏ lại một viên thuốc màu đỏ rực mùi thơm sực nức. Con chó già nhanh chóng ăn vào bụng, đi theo phía sau thiếu nữ, bước chân nhẹ nhàng, khẽ lắc lư cái đuôi. Một người đắc đạo cả họ được nhờ, cứ so sánh với người khác thì sẽ tức chết. Nhưng nếu có luyện khí sĩ nhìn thấy cảnh này, cho dù so sánh với một con chó cũng có thể tức chết. Không thể gặp được người muốn gặp, tâm tình của Nguyễn Tú vốn có phần mất mát, lúc này lại bắt đầu cao hứng. Nhìn đi, hắn phải cần nàng chiếu cố, bất kể là lồng gà hay con chó này, nàng đều trông nom rất tốt. Thiếu nữ áo xanh đi trên đường đá xanh, mái tóc đen cột thành đuôi ngựa, trời cao đất xa, phong cảnh rất đẹp. --------- Sau khi tiễn Trần Bình An trở về núi Lạc Phách, Ngụy Bách lại biến mất, đi lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi có một ngôi miếu sơn thần khí thế hùng vĩ, quảng trường rộng lớn, được trải bằng một loại đá hiếm xa xỉ hình dáng như bạch ngọc, chất liệt như sắt tinh. Kim thân trong miếu đã đắp xong, chỉ là chưa chính thức tiếp nhận hương khói của dân chúng. Tay áo rộng của Ngụy Bách như dòng chảy, tiêu sái đi về phía trước. Một tên viên ngoại lang của Công bộ Đại Ly bôn ba mệt nhọc, sau khi nghe tin vội vàng chạy tới chào hỏi. Ngụy Bách nhìn tên quan viên Đại Ly sắc mặt mệt mỏi, mười ngón tay nứt nẻ, vừa tản bộ vừa ôn hòa trò chuyện với hắn về tiến độ công trình, trong lòng khó tránh khỏi cảm khái. Họ Tống Đại Ly có thể từ một nước nhỏ phụ thuộc vương triều họ Lư, từng bước quật khởi xưng bá phương bắc, tuyệt đối không chỉ dựa vào vận thế hư vô mờ mịt. Viên ngoại lang kia không đi vào miếu sơn thần mà ở lại bên ngoài. Sau khi Ngụy Bách bước qua ngưỡng cửa, viên ngoại lang liền bước nhanh rời đi, tiếp tục đi trông coi việc xây dựng, sự vụ lớn nhỏ gì cũng phải tự mình làm. Quan trường Đại Ly thanh bạch liêm khiết, tiêu dao vui sướng như thần tiên, đây là hình dung quan viên Lễ bộ cao quý siêu nhiên. Ăn thịt miếng lớn, đao sắc giết người, kỵ binh phá trận mở rộng lãnh thổ, đây là nói võ nhân Binh bộ. Ăn đất, ăn tro, ăn không khí, đây là nói quan viên Công bộ. Nhưng một viên ngoại lang nắm giữ thực quyền, hơn nữa xuất thân từ hào phiệt thế tộc, vẫn cẩn thận chăm chỉ như vậy, đúng là hình ảnh mà vương triều khác khó tưởng tượng. Ngụy Bách khẽ vung tay áo, đóng cửa lớn lại. Trong miếu sơn thần tràn ngập mùi thơm của gỗ, thấm đượm lòng người. Đại điện cung phụng sơn thần núi Lạc Phách, chiếc đầu trên cổ kia hoàn toàn bằng vàng ròng, có vẻ khá kỳ lạ. Một nam tử áo nho hiện ra kim thân, từ trong bức tượng bay ra, trên cổ là một gương mặt màu vàng nhạt, chỉ là không được nổi bật như pho tượng. Sơn thần Tống Dục Chương, chính là quan giám sát làm gốm tiền nhiệm của Long Tuyền, sinh sống ở trấn nhỏ hơn hai mươi năm. Tống Tập Tân đã từng bị hiểu lầm là con riêng của ông ta. Cầu mái che có treo tấm biển “Phong Sinh Thủy Khởi” kia cũng do ông ta tự mình giám sát xây dựng. Cuối cùng ông ta rời khỏi nơi này, trở về kinh nhậm chức. Khi trở lại trấn nhỏ Long Tuyền thì bị vị nương nương Đại Ly kia sai người vặn gãy cổ, giấu đầu vào trong hộp. Giết người diệt khẩu, qua cầu rút ván không ngoài như vậy. Tống Dục Chương biết quá nhiều nội tình tai tiếng của họ Tống Đại Ly, thực ra ngay từ đầu ông ta đã biết mình chắc chắn phải chết. Thậm chí lúc trước trên đường về kinh, vị quan văn Đại Ly xứng với hai chữ “chính trực” này đã sẵn sàng chết bất đắc kỳ tử. Một lòng trung thành, khẳng khái đi chết cũng chỉ như vậy mà thôi. Cho nên lúc đó Vương Nghị Phủ bị nương nương Đại Ly phái đi giết người diệt khẩu, vị đại tướng họ Lư mất nước đã nói một câu từ đáy lòng: “Hóa ra người đọc sách cũng có chiếc đầu thật tốt.” Tống Dục Chương là sơn thần núi Lạc Phách, chắp tay thi lễ với vị thần Bắc Nhạc chính thức tương lai này: - Tiểu thần bái kiến đại thần. Ngụy Bách bật cười, dời bước nghiêng người, khoát tay nói: - Tống tiên sinh không cần như vậy. Tống Dục Chương quay người theo, tiếp tục thi lễ: - Quy củ như vậy, không thể ngoại lệ. Ngụy Bách đành phải nhận lễ này, bất đắc dĩ nói: - Người đọc sách các ngươi thật ngốc, lúc còn sống hay sau khi chết đều như nhau. Tống Dục Chương đứng thẳng, thản nhiên mỉm cười. Ngụy Bách cười hỏi: - Người của Lễ bộ và Khâm Thiên giám có nói với ngươi những việc cần chú ý khi đảm nhiệm sơn thần không? Tống Dục Chương tự giễu nói: - Bọn họ không dám nói thêm gì cả, sau khi hoàn thành buổi lễ phong thần thì nhanh chóng xuống núi rời đi, không xem tôi là sơn thần mà giống như ôn thần. Vẫn phải làm phiền thần Bắc Nhạc chính thức giải thích cho tiểu thần. Ngụy Bách gật đầu, bảo Tống Dục Chương đứng bên cạnh mình, sau đó vung tay áo. Sương mù sông núi trong đại điện liền bay lên, tràn ngập khắp nơi. Trên mặt đất nhanh chóng xuất hiện toàn cảnh khu vực núi Lạc Phách, sông núi không phân chia. Mặc dù một vị sơn thần chỉ cai quản một ngọn núi, nhưng với khe suối bắt nguồn từ trên núi, hoặc là sông ngòi chảy qua chân núi, sơn thần đều sở hữu quyền quản lý khác nhau. Thần sông nước chính thức trên thế gian, nhất là cấp bậc thấp hơn như hà bá hà bà, thông thường đều không nổi tiếng bằng thần núi lớn chính thức. Đây cũng là nguyên nhân mà người trước thường phải chủ động lôi kéo quan hệ với người sau. Ngụy Bách chỉ vào miếu thờ trên đỉnh núi Lạc Phách dưới đất, nói: - Phải nói rõ trước, thần linh núi sông chúng ta thực ra không có ý nghĩa quá lớn. Chính là nằm trên sổ sách công lao để hưởng phúc, ăn hương khói, không cần tu lực, cũng không cần tu tâm. Chỉ cần tích góp âm đức, giúp triều đình duy trì khí vận sông núi một nơi là được. So sánh thử mười năm, trong địa bàn thiên tai nhân họa nhiều hay ít, dân số tăng giảm lên xuống thế nào, có cử nhân tiến sĩ xuất hiện hay không, có tu sĩ chuyển đến cắm rễ ở đây hay không, nếu xuất hiện dấu hiệu điềm lành thì càng tốt. Đây chính là công đức của thần linh, thành tích của quan lại. Tống Dục Chương xuất thân từ quan viên, cho nên khi Ngụy Bách dùng quan trường để nói chuyện thần linh, ông ta nhanh chóng tỉnh ngộ, rất dễ hiểu được. Ngụy Bách cười nói: - Tóm lại tất cả ưu khuyết đều được ghi chép rõ ràng trong sổ sách của quan phủ triều đình, liếc qua là thấy ngay. Đừng tưởng rằng làm sơn thần thì chỉ cần giao tiếp với ta, trên thực tế đối tượng mà ngươi cần để ý vẫn là triều đình Đại Ly. Quận Long Tuyền tổng cộng có ba ngôi miếu sơn thần, ta chiếm cứ đại điện trên núi cao Phi Vân, ngươi ở núi Lạc Phách, còn có một ngôi được xây dựng ở khu phía bắc. Chuyện này rất hiếm thấy ở nơi khác, thuộc dạng mật ít ruồi nhiều. Sau này ngươi sẽ rất nhức đầu, bởi vì phải tranh đoạt hương khói của thiện nam tín nữ. Đương nhiên ngươi không thể tranh với ta... Tống Dục Chương nói đùa: - Tôi nào dám, đây gọi là xúc phạm người trên. Lúc trước còn sống, có thể tự nói với mình là sợ cái rắm gì, chẳng qua là từ quan không làm nữa, nhiều nhất cũng chỉ chết mà thôi. Hôm nay lại không thể như vậy, muốn chết cũng khó rồi. Nói đến đây, Tống Dục Chương lại chắp tay cáo lỗi, trong lời nói mang theo ý cười: - Đại thần núi cao nhiều lần ghé đến núi Lạc Phách, tiểu thần đều không dám lộ diện, thật sự lo lắng. Phải là tiểu thần chủ động đến núi Phi Vân thăm viếng mới đúng. Dù sao cũng là một quan viên tầng dưới chót cắm rễ nhiều năm ở trấn nhỏ, hơn nữa thích tự mình làm việc. Quanh năm ở trong hơn ba mươi lò gốm kia, tác phong quan liêu trên người Tống Dục Chương đã sớm bị mài mòn. Đừng nói là chọc cười, ngay cả lời lẽ thô tục cũng biết không ít. Ngụy Bách bất đắc dĩ nói: - Được, Tống tiên sinh đã nhanh chóng từ một quan trường dung nhập vào một quan trường khác, ngộ tính rất cao. Tống Dục Chương cười hỏi: - Vị phía bắc kia thì sao? Một núi không thể chứa hai hổ, phật còn phải tranh một nén nhang, huống hồ là thần linh núi sông bọn họ phải dựa vào hương khói để tồn tại. Sự phức tạp trong đó, ruồi nhặng bu quanh, không hề kém hơn quan trường thế tục. Ngụy Bách ngẫm nghĩ, nhẹ giọng nói: - Không phải người hiền lành, khi còn sống là võ tướng Đại Ly chiến công chói lọi, tính tình rất tệ. Có điều nghe nói lại có quan hệ rất tốt với hai vị ở lầu Văn Xương miếu Võ Thánh. Tống Dục Chương trêu chọc: - Như vậy không thể làm quan được. Không lạy thần chính thức mà đi lạy cửa bên, vào sai miếu, thắp sai nhang thì sẽ chịu khổ. Ngụy Bách thoải mái cười lớn, giơ ngón cái lên: - Lời này thật khiến ta hả giận. Hắn khẽ nhấc ngón tay, núi Lạc Phách trong sương mù càng lúc càng cao, cuối cùng hiện ra một bức tranh chi tiết ở nơi nào đó. Trên mặt nước suối, có người kéo thẳng một sợi dây thừng, hai đầu cột vào hai thân cây, trên dây treo một chiếc bình nhỏ đã mở nắp. Dưới một thân cây ở ven bờ, có một cô bé váy hồng thỉnh thoảng lại lắc lư dây thừng một chút, chiếc bình trên mặt sông liền theo đó đung đưa. Ngụy Bách giải thích: - Đây là một chiếc bình văng vẳng phẩm chất khá tốt, có thể thu nạp rất nhiều âm thanh mỹ diệu trên thế gian. Nhưng cần có người ở bên cạnh lắc lư dây thừng, nếu không sẽ phải tốn nhiều thời gian hơn để chứa đầy. Tống Dục Chương hỏi: - Là bình của sơn chủ Trần Bình An sao? Ngụy Bách gật đầu nói: - Đúng vậy. Ấn tượng của ngươi đối với Trần Bình An thế nào? Tống Dục Chương không hề do dự nói: - Bởi vì liên quan đến Tống Tập Tân... đến điện hạ, tôi cũng hiểu rõ sự trưởng thành của Trần Bình An, cho nên ấn tượng rất tốt. Có thể trở thành sơn thần núi Lạc Phách, tôi cảm thấy không tệ. Ngụy Bách đột nhiên quay đầu nhìn chăm chú vào vị sơn thần cấp dưới này, lần đầu tiên gọi Tống Dục Chương là “Tống đại nhân”, sau đó cười híp mắt nói: - Đừng nói với ta là ngươi không nghĩ tới một trường hợp, Đại Ly cần ngươi giám thị Trần Bình An, không chừng một ngày nào đó sẽ muốn ngươi làm chuyện xấu xa trái với lương tâm. Tống Dục Chương vui vẻ cười nói: - Đương nhiên có suy đoán. Vì nơi này mà Đại Ly ta đã bỏ ra nhiều tâm huyết như vậy, để xây dựng cầu mái che kia đã chết bao nhiêu con cháu hoàng tộc Đại Ly, chắc hẳn ngài đã biết. Cho nên hôm nay Trần Bình An qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai, vận may rơi vào đầu, Đại Ly ta làm sao có thể không đề phòng bất ngờ? Đại Ly ta! Lúc còn sống xem nó là vinh quang, sau khi chết vẫn không thay đổi. Đây gọi là chết không hối cải sao? Ngụy Bách trầm mặc một hồi lâu, gom những sương mù kia về tay áo rộng, giống như chim mỏi về rừng, lại có thể khiến Tống Dục Chương cảm nhận được khí tức vui sướng của chúng. Ngụy Bách cười cười: - Được rồi, ta đã biết. Thân hình lập tức biến mất. Tống Dục Chương một mình ở trong miếu sơn thần, thở dài một tiếng. Chẳng lẽ mình thật sự không thích hợp làm quan? Lận đận khắp nơi, lúc còn sống hay sau khi chết đều như vậy. Ngụy Bách dẫn theo Trần Bình An đi dạo khắp nơi, hàm ý có ai không rõ? Tống Dục Chương biết, vị ở trong miếu sơn thần phía bắc kia cũng biết. Tất cả thế lực tiên gia mua núi, có ai không phải người sống thành tinh, trong lòng lại càng biết rõ. Ngụy Bách cố ý dẫn thiếu niên đi qua các ngọn núi lớn, rõ ràng là đang thẳng thắn biểu thị một sự thật. Trần Bình An được Ngụy Bách ta che chở, đám người xứ khác các ngươi bất kể có lai lịch gì, nếu muốn kiếm cơm ăn trong địa bàn của ta, vậy thì phải cân nhắc sức nặng của một vị thần Bắc Nhạc chính thức. Bởi vì Ngụy Bách không phải là đại thần núi cao bình thường, tương lai rất có thể sẽ là một vị thần Bắc Nhạc chính thức ở phía bắc thư viện Quan Hồ, lực lượng, địa bàn và quyền thế đều lớn nhất, không có một trong. --------- Mùng ba tết, trong dãy núi phía tây trấn nhỏ, Lý Hi Thánh dẫn theo một thiếu niên dáng vẻ như thư đồng, mỗi người cầm một cây gậy trúc, cùng nhau lội nước leo núi, đi về hướng núi Lạc Phách. Thiếu niên tên Thôi Tứ, cái tên này là do hắn tự đặt, hiện đang ở nhà tổ họ Viên trong trấn nhỏ, nhưng không phải là người Viên gia. Lý Hi Thánh ngoại trừ tay cầm gậy trúc để tiện đi đường núi, bên hông còn đeo bùa đào do hai mảnh gỗ hợp lại với nhau, cổ xưa trang nhã, rất phù hợp với hắn. Hôm nay hắn đảm nhiệm trợ giảng trong trường học do họ Trần quận Long Vĩ xây dựng, chưa có thanh danh, kém xa những đại nho văn hào nổi tiếng bốn phương kia, cho nên không nhận nổi xưng hô lão sư tiên sinh. Nhưng đám nhỏ trong trường lại thích hắn nhất, thích nghe hắn kể những chuyện lạ lùng đặc sắc. Thôi Tứ càng như vậy, không ngừng dây dưa quấy rầy, cuối cùng đã khiến hắn đồng ý làm thầy giáo của mình. Thôi Tứ trời sinh tò mò với mọi chuyện, hỏi: - Tiên sinh, thánh nhân Đạo gia có nói: “Đời người là hữu hạn, tri thức là vô hạn. Dùng hữu hạn theo đuổi vô hạn, dĩ nhiên sẽ thất bại”. Vậy nên làm thế nào? Lý Hi Thánh đang suy nghĩ một chuyện, nhất thời không trả lời. Thôi Tứ đã quen với thần thái mông lung của tiên sinh nhà mình, tiếp tục hỏi: - Vị thánh nhân kia lại nói: “Người sinh ra trong trời đất, như bóng ngựa qua khe cửa, chỉ trong thoáng chốc mà thôi”. Rõ ràng là bổ sung cho câu trước, nên làm thế nào cho phải? Lý Hi Thánh cuối cùng khôi phục tinh thần, mỉm cười nói: - Cho nên phải tu hành, mỗi lần vượt qua một ngưỡng cửa là có thể sống lâu mười năm trăm năm, có thể đọc nhiều sách hơn. Thôi Tứ vẫn cảm thấy chưa hoàn toàn giải thích được: - Mặc dù Nho gia chúng ta cũng sùng bái tu hành, nhưng đọc sách phần nhiều là vì nhập thế, vì khiến cho thế đạo này tốt hơn. Trước giờ không giống như Đạo gia, chỉ theo đuổi cá nhân xuất thế và chứng đạo. Vậy lại nên làm thế nào? - Không chân thành thì không thể cảm động. Lý Hi Thánh mỉm cười nói tám chữ, đứng tại chỗ nhìn cảnh tượng bốn phía xa xa, non xanh nước biếc, sau đó lại nói tám chữ: - Làm việc thiết thực, tự nhiên mà thành. Thôi Tứ nghe được bốn chữ “tự nhiên mà thành”, lại tự nhiên nghĩ đến Đạo gia rất hưng thịnh ở Đông Bảo Bình Châu. Hắn thở dài nói: - Tôi đọc được trong một quyển sách, nói là vào loạn thế, Đạo gia xuống núi nhập thế cứu người, Phật gia đóng cửa gõ mõ. Còn trị thế, Đạo gia lên núi tự học thanh tịnh, Phật gia mở cửa nhận tiền. Tiên sinh, nghe có vẻ Đạo gia thật sự tốt đẹp, còn hòa thượng Phật gia lại chẳng ra gì. Chẳng trách bọn họ không được ưa chuộng ở châu chúng ta, Phật pháp không thịnh hành. Lý Hi Thánh lắc đầu cười nói: - Đây chỉ là lời phẫn uất cực đoan của một số người đọc sách. Không phải hoàn toàn không có đạo lý, chỉ là đạo lý nói hơi thiếu, dùng quan điểm phiến diện để nhận xét chỉnh thể, ngược lại không tốt, không bằng đừng nói. Tam giáo có thể lập giáo, đương nhiên mỗi bên đều có điểm lợi hại riêng. Hơn nữa đạo chính thống của tam giáo đều rất phức tạp, vươn cành tỏa lá rất nhiều, chi nhánh hỗn tạp. Cho nên ngươi phải nhận rõ tôn chỉ của tam giáo, nhất định phải truy tìm căn nguyên mới có thể đánh giá một chút. Không nên chỉ biết bề nổi lại ăn nói lung tung, thấy một hoặc vài đạo sĩ xấu, hòa thượng xấu lại vơ đũa cả nắm, như vậy không tốt. Hắn nhìn về một ngọn núi lớn phía xa: - Khi tam giáo tranh luận, sẽ có ba người lần lượt trình bày gốc rễ lập giáo. Người ngoài không thể tưởng tượng đạo lý của ba bên sâu xa thâm thúy như thế nào, cho nên rất nguy hiểm. Thôi Tứ nghi hoặc khó hiểu: - Tiên sinh, ba người lần lượt nói chuyện, sao lại nguy hiểm? Lý Hi Thánh dời mắt khỏi nơi cao, nhìn thẳng nhìn về phương xa, mỉm cười nói: - Nếu là tranh luận, ngoại trừ phải biết giáo lý của mình dài ngắn thế nào, còn phải hiểu rõ tốt xấu của người khác, mới có thể thuyết phục hai người đối phương chấp nhận đạo lý của mình. Như vậy sẽ có người khi nghiên cứu học vấn của nhà khác lại đột nhiên tỉnh ngộ, hoặc là được cảnh tỉnh, tranh luận còn chưa bắt đầu đã dứt khoát thay đổi lập trường, đi lên con đường của nhà khác. Thôi Tứ hiểu biết nông cạn, mơ mơ hồ hồ. Lý Hi Thánh cười nói: - Trước tiên đừng nghĩ nhiều như vậy, đi tiếp thôi. Thôi Tứ gật đầu, không nhịn được lại hỏi một vấn đề: - Tiên sinh, rốt cuộc chúng ta vào núi để làm gì? Lý Hi Thánh trả lời: - Bởi vì ta cảm thấy có chuyện, có một số người hành động sai trái. Nếu đã sai, vậy không thể sai lại càng sai. Ta muốn làm một chút chuyện trong khả năng cho phép. Thôi Tứ tươi cười nói: - Tiên sinh luôn đúng đắn. Lý Hi Thánh lắc đầu nói: - Những đạo lý quý giá được lưu truyền trong sách, bất kể là của nhà nào giáo nào, đều không thể để uổng phí. Thấy Thôi Tứ hơi do dự, Lý Hi Thánh trêu đùa: - Hôm nay ngươi còn có thể hỏi một vấn đề cuối cùng. Thôi Tứ nhảy nhót nói: - Tôi đọc được trong một quyển bút tích văn nhân khác, trên đời có chín tòa lầu Hùng Trấn, vì sao tòa cuối cùng số chữ trong tên lại khác biệt? Lý Hi Thánh ngẫm nghĩ: - Ngươi muốn nói tới lầu Hùng Trấn có tên là “Trấn Bạch Trạch” kia? Bởi vì Bạch Trạch... là tên của một người, nếu đặt tên là lầu Trấn Bạch hay lầu Trấn Trạch, vậy thì không phù hợp. Thôi Tứ bứt rứt, vẻ mặt khổ sở, muốn hỏi thêm một vấn đề nhưng lại không dám. Lý Hi Thánh phì cười nói: - Cứ hỏi là được. Hôm nay thời tiết rất tốt, non xanh nước biếc, có thể hỏi thêm vài câu. Thôi Tứ vui mừng phấn khởi, nhảy nhót tung tăng bên cạnh tiên sinh: - Bạch Trạch bị trấn áp trong lầu kia, có quan hệ với “Bạch Trạch Đồ” mà luyện khí sĩ nào cũng có sao? Lý Hi Thánh gật đầu nói: - Có, chính là cùng một cái tên. Thôi Tứ tấm tắc nói: - Tiên sinh, trong này nhất định có rất nhiều học vấn đúng không? Lý Hi Thánh không lộ tâm tình ngẩng đầu lên, nhìn về một hướng ngượng ngùng cười, sau đó dặn dò thiếu niên: - Thánh hiền Nho gia khuyên chúng ta nên kiêng tên húy của trưởng giả, không chỉ đối với những thánh nhân trong Văn miếu, mà còn đối với thánh hiền trong tam giáo các phái. Cho nên sau này ngươi một mình đi lại giữa sông núi ao hồ, không nên tùy tiện gọi tên húy của đối phương. Thôi Tứ nghi hoặc hỏi: - Bạch Trạch? Lý Hi Thánh mỉm cười gõ đầu hắn một cái: - Ngươi nói xem? Thôi Tứ cười hì hì, không để bụng. Hai người tiếp tục trèo đèo lội suối, đi về hướng núi Lạc Phách. Ven bờ biển tây của Đông Bảo Bình Châu, có một nam tử mặc áo lông chồn đứng bên vách đá, tâm tư khẽ dao động, nhíu mày quay đầu nhìn về phía đông. Bên cạnh hắn có một phu nhân mặc lễ phục đội nón che mặt, chính là hồ ly đã rơi xuống vách núi vào đêm gió tuyết kia. Cô cẩn thận hỏi: - Là Đông Bảo Bình Châu có một vị thánh nhân nói năng lỗ mãng với lão gia? Có cần nô tỳ đi giáo huấn một chút không? Nam tử dời mắt đi, hờ hững nói: - Chỉ là một luyện khí sĩ cảnh giới thứ sáu của Đại Ly mà thôi. Hay cho câu “thiên hạ chưa loạn bình đã đổi”. Phu nhân nghẹn họng nhìn trân trối, ngoan ngoãn im lặng, trong lòng vội vàng khuyên mình bớt nói thì tốt hơn. --------- Ngụy Bách tìm được Trần Bình An ở lầu trúc, khi đó Trần Bình An đang đứng trên đất trống, luyện tập thủ ấn đứng thế dưới ánh trời chiều. Thằng bé áo xanh và cô bé váy hồng thì còn giống lão gia hơn lão gia, ngồi trên ghế trúc ăn quà vặt. Ngụy Bách đi tới đứng bên cạnh Trần Bình An, không lên tiếng quấy rầy. Đợi đến khi Trần Bình An dừng lại, Ngụy Bách mới xoay người bảo cô bé váy hồng giúp khiêng hai chiếc ghế trúc tới, bảo là muốn nói chuyện nghiêm túc với tiên sinh nhà cô. Không đợi cô bé váy hồng hành động, thằng bé áo xanh đã chạy đi, mỗi tay xách một cái ghế trở về. Hắn đặt ghế trúc xuống, không quên khom lưng vểnh mông, dùng tay áo ra sức lau mặt ghế. Chờ hắn trở lại chỗ cô bé váy hồng, nhìn thấy ánh mắt chán ghét của cô, liền hùng hồn nói: - Ngươi biết cái gì, đây gọi là đại trượng phu biết co biết duỗi. Ngụy Bách và Trần Bình An ngồi xuống ghế trúc nhỏ. Ngụy Bách lên tiếng trước: - Đừng trách ta nhìn lén cảnh tượng xảy ra ở lầu trúc. Khi đó ngươi và phôi kiếm kia tranh giành khí thế, tình hình nguy hiểm vượt xa tưởng tượng của ngươi. Nhẹ thì có thể tẩu hỏa nhập ma, nặng thì có thể mất mạng tại chỗ. Trần Bình An gật đầu, tiện thể tháo gỡ vướng mắc nhỏ này. Ngụy Bách chậm rãi nói: - Kiếm tu có hai chuyện, luyện kiếm và luyện kiếm. Luyện trong luyện tập là luyện kiếm thuật kiếm pháp, còn luyện trong rèn luyện là luyện bản thân bội kiếm và phi kiếm bản mệnh. Ngụy Bách đơn giản vắn tắt nói rõ điểm chính, sau đó dừng lại một lúc, có thể thấy hắn rất xem trọng những lời muốn nói hôm nay: - Bởi vì ta không nhìn ra cấp bậc phôi kiếm kia của ngươi cao hay thấp, vì vậy không dám khẳng định, nhưng ta có thể đơn giản nói một vài đạo lý chung. Chẳng hạn như muốn rèn luyện một thanh phi kiếm thực chất, hoặc rèn luyện và nuôi dưỡng một thanh phi kiếm bản mệnh, cần tiêu hao vô số thiên tài địa bảo. Cho nên ta dẫn ngươi đi đến từng ngọn núi, là muốn ngươi hiểu được một chuyện, tu hành trên núi cần phải ăn hết núi vàng núi bạc. Người dưới chân núi giàu có một phương, tài phú có thể mấy đời tiêu không hết. Nhưng trên núi không ai sở hữu tiền bạc đời này tiêu không hết, có thể... lão tổ tam giáo là ngoại lệ. Cô bé váy hồng ngồi ngay ngắn phía sau, dựng tai lắng nghe. Những chuyện này không liên quan gì đến một con trăn lửa như cô, nhưng lại có quan hệ rất lớn với lão gia nhà cô, sao có thể không dụng tâm lắng nghe? Lỡ may lão gia nghe sót, sau này cô có thể giúp đỡ bổ sung. Thằng bé áo xanh bên cạnh thì nghe rất nhàm chán, ánh mắt khinh khỉnh. Trần Bình An nghiêm túc lắng nghe. Nếu hôm nay Ngụy Bách không nói, hắn cũng sẽ xuống núi tìm Nguyễn Tú để hỏi. Hai tay Ngụy Bách lồng trong tay áo, điểm này có phần tương tự với Thôi Đông Sơn, chậm rãi nói: - Có tư chất trở thành kiếm tu hay không là ngưỡng cửa thứ nhất của luyện khí sĩ. Trở thành kiếm tu rồi, có tiền tu luyện phi kiếm hay không là ngưỡng cửa thứ hai, hơn nữa ngưỡng cửa này không hề thấp. Độ cứng cáp của một thanh kiếm quyết định bởi mật độ của thân kiếm, cho nên cần thợ đúc kiếm rèn giũa nhiều lần. Độ sắc bén của kiếm cũng cần mài giũa liên tục, đây là nguyên nhân mà khối trảm long đài ở vách núi kia đáng giá như vậy. Đến nỗi thánh nhân Nguyễn Cung cũng không dám một mình độc chiếm, phải lôi kéo miếu Phong Tuyết và núi Chân Vũ cùng nhau phân chia, mới có thể phòng ngừa kẻ khác dòm ngó. Trong lòng Trần Bình An cảm khái, hóa ra thánh nhân một phương cũng có chuyện bất đắc dĩ. Ngụy Bách tiện tay chỉ về một ngọn núi rất xa phía sau người, nơi đó tồn tại một khối trảm long đài to lớn: - Chỉ cần là thần binh lợi khí, yêu cầu đối với đá mài sẽ rất cao. Đây cũng là nguyên nhân trảm long đài có giá trị liên thành, rất khó đầu cơ kiếm lợi, chỉ cần giữ ở trong tay thì xem như đã có lời rồi. Trừ khi bất đắc dĩ cần gấp tiền cứu mạng, mới sẽ có người chịu đem bán. Nếu Bao Phục Trai thả ra tin tức có một khối trảm long đài lớn chừng bàn tay muốn bán, ta đoán cả núi Ngưu Giác sẽ là cảnh tượng đầu người nhốn nháo. Nói đến đây, Ngụy Bách vươn ngón tay nhấn vào thiếu niên: - Trần Bình An ơi Trần Bình An, những đá mật rắn mà ngươi xem như cải trắng tiện tay tặng cho người khác kia, vì sao chúng lại đáng giá? Là do thuốc trên thế gian có ba phần độc, đan dược có linh, phẩm chất có cao, cũng sẽ tạo thành ảnh hưởng nhất định với kinh huyệt bản thân, rất khó loại trừ tận gốc. Lúc đầu có thể áp chế, tích trữ trong một số kinh huyệt hoang vắng. Nhưng theo tu vi của luyện khí sĩ càng ngày càng cao, vết bẩn kia cũng sẽ càng ngày càng rõ. Dùng thần thông quan sát bên trong, chút tì vết kia sẽ càng lớn, gây trở ngại đến đại đạo. Luyện khí sĩ cảnh giới thứ mười có thể được thế tục xưng là thánh nhân, nhưng vì sao bọn họ lại co đầu rụt cổ? Chẳng lẽ lại thích làm lão rùa già? Đương nhiên không phải, bọn họ chỉ là đang khó khăn loại trừ vết bẩn từng chút một. Thằng bé áo xanh có phần hoảng hốt lo lắng, trong thoáng chốc ngồi thẳng lưng không nhúc nhích, cũng không dám tản mạn nhìn xung quanh nữa. Cô bé váy hồng cũng hơi hổ thẹn, thực ra cô vẫn luôn suy nghĩ, mình chỉ giúp lão gia giữ gìn viên đá mật rắn thượng đẳng thứ ba mà thôi, chứ sẽ không ăn. Ngụy Bách nghiêm mặt nói: - Kế tiếp ta muốn nói với ngươi một số chuyện bí mật, ngay cả ta cũng phải trả cái giá không nhỏ mới biết được những chuyện này. Trần Bình An, hi vọng ngươi không nên tùy tiện nói ra. Trần Bình An gật đầu nói: - Ngươi yên tâm, hôm nay ngoại trừ Nguyễn cô nương và Lý đại ca, ta ở trấn nhỏ đã không còn người nào để tán gẫu nữa. Lúc này Ngụy Bách mới nói tiếp: - Có từng nghe đến núi Đảo Huyền chưa? Trần Bình An biến sắc, không nói gì, không gật đầu cũng không lắc đầu. Ngụy Bách cho rằng A Lương đã từng nhắc đến, vì vậy cũng không lấy làm lạ: - Núi Đảo Huyền xuất xứ từ bút tích to lớn của một trong ba vị đệ tử Đạo Tổ, có thể nói là một con dấu chữ Sơn lớn nhất trên thế gian, được đạo pháp hùng hậu nâng đỡ, vững chắc không thể phá vỡ. Đây là nơi giao nhau của thế giới Hạo Nhiên và thế giới Man Hoang, là cửa ải hiểm yếu đầu tiên... cũng có thể là cửa ải cuối cùng. Trần Bình An hỏi: - Vì sao lại là cửa ải cuối cùng? Ngụy Bách cười khổ nói: - Một khi nước lũ vỡ đê, phía sau làm sao ngăn cản? Hắn ngẩng đầu lên, dựa lưng vào ghế thổn thức: - Cho nên không chỉ Bắc Câu Lô Châu sinh ra nhiều kiếm tu, những tiên nhân lần trước lướt qua Đông Bảo Bình Châu, đến trấn nhỏ các ngươi cũng hạ thấp xuống, lộ diện một cách ngắn ngủi. Những kiếm tu còn lại trong thiên hạ, lần này đều được chiêu mộ tới núi Đảo Huyền. Bọn họ phải băng qua núi Đảo Huyền, đi đến một nơi gọi là Kiếm Khí trường thành, chống lại yêu tộc của một thế giới khác xâm nhập. - Mỗi lần yêu tộc làm loạn, dấy lên chiến sự, kiếm tu trong thiên hạ đều sẽ nghe hiệu triệu đi đến núi Đảo Huyền, qua núi vào thành, đứng trên bức tường cao kia, rèn luyện kiếm đạo giữa sinh tử. Kiếm Khí trường thành, nơi đó hội tụ kiếm tiên nổi tiếng nhất, kiếm tiên số lượng nhiều nhất thực thi hành động vĩ đại nguy hiểm nhất trên đời. Nhưng ngươi có biết bên đó thiếu nhất là gì không? Ngụy Bách quay đầu nhìn Trần Bình An. Trần Bình An đương nhiên chỉ có thể lắc đầu. Ngụy Bách nói ra đáp án: - Thiếu kiếm. Bởi vì nơi đó chiến sự quá thường xuyên hơn nữa còn thảm liệt, rất nhiều thần binh tuyệt thế được kiếm tu bên ngoài mang tới. Danh kiếm có tư cách trở thành pháp khí hàng đầu một châu, thân kiếm đứt đoạn, kiếm ý tan vỡ, chủ nhân của kiếm ngã xuống, tử thương vô số. Cho nên kiếm tu sinh trưởng ở đó muốn sở hữu một thanh kiếm tốt rất khó khăn. Cộng thêm trong yêu tộc cũng có nhiều kiếm tu thích vơ vét danh kiếm hài cốt, thường xuyên qua lại. Kiếm tu ở Kiếm Khí trường thành muốn chống lại yêu tộc phải cần rất nhiều kiếm, thậm chí không ngừng thông qua núi Đảo Huyền để mua kiếm và xin kiếm của bên ngoài. Từ đó khiến cho thương nhân tụ tập bên ngoài núi Đảo Huyền, hét giá tại chỗ, vô số người nhờ vậy mà phất lên. Trần Bình An muốn nói lại thôi. Ngụy Bách giống như biết suy nghĩ của Trần Bình An, cười nhạo nói: - Ngươi cho rằng mọi người đều giống như ngươi sao? Tốt bụng quá mức, tiện tay tặng bảo bối, tặng xong còn lo lắng người ta cầm có nặng không, có cần ngươi xách giúp không. Sắc mặt thằng bé áo xanh lúng túng, nhéo nhéo mũi, cảm thấy mình có nên bộc phát lương tâm, sau này đối xử với Trần Bình An tốt hơn một chút? Trần Bình An im lặng không nói gì. - Trần Bình An, những lời khó nghe này của ta, ngươi đừng để trong lòng. Nói thật ta rất bội phục ngươi. Ngụy Bách hơi áy náy, thở ra một hơi dài, giống như tích góp trong bụng quá lâu, không nhổ ra thì không thoải mái. Sau đó ánh mắt của hắn trở nên sắc bén, cười nhạt nói: - Theo như tin tức mà ta biết, trong số đại yêu của thế giới kia có ba vị tuyệt thế kiếm tiên thành danh đã lâu, chiến lực to lớn, sát lực mạnh mẽ không thể tưởng tượng được. Hôm nay đã qua nhiều năm như vậy, số lượng tăng thêm hay ít đi cũng không biết. Hắn lại vỗ đầu một cái: - Thiếu chút nữa đã quên nói, vì sao yêu tộc lại không ngừng tấn công Kiếm Khí trường thành. Rất đơn giản, hoàn cảnh sinh sống thật sự quá tồi tệ, linh khí mỏng manh, không có lợi cho tu hành. Bọn họ thân thể mạnh mẽ, tinh thông chém giết. Thế giới đó giống như một bãi nuôi sâu độc, kẻ mạnh chiếm cứ phần lớn ngọn núi và tài nguyên tu hành, con cháu đông đảo. Còn thế giới Hạo Nhiên của chúng ta là một miếng thịt mỡ lớn, không ở bên miệng nhưng nhìn thấy được. Trong chén của mình là cơm thừa canh cặn, còn trong chén người khác lại là thịt cá, làm sao có thể không thèm thuồng? Sắc mặt Ngụy Bách dần khôi phục bình tĩnh: - Thực ra nếu nói đúng sai, một bên là vì bản thân sinh tồn và bành trướng, cùng với khiến cho con cháu sống tốt hơn; còn một bên là vì bảo vệ nhà cửa, thề chết canh giữ biên giới. Nếu đổi thành một bên thứ ba đứng ngoài quan sát, có thể sẽ không phân biệt thiện ác mạnh mẽ như vậy. Ta tiến vào núi Phi Vân, đồng ý trở thành thần núi Nhạc chính thức, xem như đã kết thành một minh ước rất lớn với họ Tống Đại Ly, cho nên mới biết được những nội tình này. Những chuyện kế tiếp, ngươi chỉ cần xem như thiên thư và cố sự là được, không cần quá để ý. - Nghe nói trước đây có một trận đại chiến cực kỳ bi thảm. Mười mấy đại yêu dắt tay nhau đi đến bên dưới Kiếm Khí trường thành, thương nghị với tu sĩ đỉnh cao của nhân tộc, hi vọng được chia một mảnh đất lớn khoảng bằng Đông Bảo Bình Châu ở gần núi Đảo Huyền, xem như điều kiện ngưng chiến. Chúng ta đương nhiên không đồng ý, trẻ con cũng biết đạo lý được voi đòi tiên. Sau trận đại chiến đó đã xuất hiện một vụ đánh cuộc. Yêu tộc và Kiếm Khí trường thành mỗi bên phái ra mười ba người, xem bên nào thắng được bảy trận trước. Nếu yêu tộc thắng, sẽ có thể không tốn một binh chiếm cứ Kiếm Khí trường thành kia. Còn nếu chúng ta thắng, sẽ có thể giành được tất cả kiếm khí trong thế giới yêu tộc. Nói đến đây, Ngụy Bách không kìm lòng được đứng dậy: - Đánh! Vì sao chúng ta không dám đánh mười ba trận này! - Biết không? Hắn hăng hái vươn ngón tay ra, chỉ về hướng nam: - Chỉ riêng thứ tự xuất chiến của trận doanh hai bên, thế giới Hạo Nhiên chúng ta đã vắt hết óc. Họ Lục Trung Thổ được xưng là nửa giang sơn của Âm Dương gia, có một vị lão tổ đã trả cái giá rất lớn, mới suy tính được đại khái thứ tự xuất chiến của cao thủ yêu tộc. - Trận đại chiến đỉnh cao này xưa nay chưa từng có, sau này cũng không có. Hai bên đều loại bỏ ba cao thủ mạnh nhất của phe mình, để tránh bọn họ đánh đến mức quên hết tất cả, đánh xuyên cả biên giới của hai thế giới, lợi không bằng hại, vậy thì trận tỷ thí công bình này sẽ không còn bất cứ ý nghĩa gì. - Bảy trận đầu của Kiếm Khí trường thành, ngoại trừ trận thứ nhất thì đã thắng đến sáu trận. Dưới tình thế tốt đẹp gần như nắm chắc phần thắng, trận thứ tám lại thua, hơn nữa nữ kiếm tiên kia còn là người đầu tiên bị yêu tộc chém chết tại sa trường. Sau đó binh bại như núi đổ, tiếp tục thua đến trận thứ mười hai. Mà trận đó bên phía Kiếm Khí trường thành cho rằng sẽ tất thắng, bởi vì vị đại kiếm tiên kia được công nhận là chiến lực trác tuyệt, kinh nghiệm phong phú, chưa từng thất bại. Thế nhưng hắn vẫn thua, trở thành kiếm tu thứ hai chết trận. - Sau đó thế giới Hạo Nhiên chúng ta đều cảm thấy tuyệt vọng, bởi vì mọi người đều cho rằng chắc chắn sẽ thất bại. Không phải kiếm tu xuất chiến cuối cùng của Kiếm Khí trường thành không đủ mạnh, vừa lúc trái ngược, ông ta rất mạnh, mạnh đến mức khiến người ta cảm thấy vô địch. Nhưng người ra sân cuối cùng của yêu tộc, lại là cao thủ mà vạn năm nay được công nhận là sát lực xếp vào ba hạng đầu trong thế giới kia. Chỉ là hắn vừa mới ra khỏi cửa ải sinh tử, lúc trước vẫn bế quan ngàn năm, cho nên không nằm trong số ba người bị loại bỏ. Cao nhân họ Lục của Âm Dương gia liều mạng tính toán đủ đường, lại không thể tính được điểm này, rất dễ thấy yêu tộc nhất định đã trả cái giá không nhỏ để che giấu thiên cơ. - Đại yêu kia là kiếm tu cảnh giới thứ mười ba đỉnh cao. Trong lịch sử vô số lần yêu tộc công thành, hắn là người đầu tiên giết lên tường thành nhiều nhất, cũng là người cuối cùng rời khỏi tường thành. Thằng bé áo xanh và cô bé váy hồng phía sau nghe vậy sắc mặt trắng bệch. Ngay cả Trần Bình An tâm chí kiên định vượt xa người thường cũng nắm chặt hai tay, ấn mạnh xuống đầu gối, mồ hôi đầm đìa mà không hay biết. Ngụy Bách đột nhiên cất tiếng cười lớn, bước nhanh tới trước, tay áo lắc lư kịch liệt. Một tay hắn chỉ về phương nam xa xôi, quay đầu sang, tay kia nắm lại giơ lên: - Nhưng chúng ta đã thắng. Người giết chết tên kiếm tu đại yêu kia, mọi người đều gọi ông ta là A Lương. Không ai biết ông ta từ đâu tới, muốn đi đâu, chỉ biết ông ta đã giết nhiều yêu tộc ở Kiếm Khí trường thành nhất. Ngụy Bách cực kỳ vui sướng, lắc mạnh cánh tay, lớn tiếng nói với trời đất: - Ông ta tên là A Lương! Trần Bình An chậm rãi quay đầu, nhìn về lầu trúc nhỏ được một người đặt tên là “lầu Mãnh Tự”, trong thoáng chốc nước mắt chảy xuống. Nhớ lại lần đầu tiên gặp mặt, người đàn ông trung niên đội nón kia đeo đao dắt theo con lừa, mỉm cười tự giới thiệu mình: “Ta tên là A Lương, lương trong lương thiện. Ta là một kiếm khách.”